Tại sao nói: ‘Vô tình cắm liễu, liễu xanh um’?

Câu ngạn ngữ này mượn hình ảnh cây liễu để làm ví dụ, muốn nói rằng những chuyện được làm một cách tự nhiên, không cố ý, về sau sẽ nhận lại kết quả tốt đẹp ngoài mong đợi, còn những chuyện được thực hiện với kế hoạch từ trước, có thể sẽ hao tốn toàn bộ công sức nhưng kết quả cuối cùng lại không như mong đợi, không thể nào thành công…
Trước và sau tiết thanh minh chính là khoảng thời gian mà cây liễu tươi tốt nhất, những cành liễu xanh tươi, hoa liễu tung bay trong gió, câu ngạn ngữ: “Vô tâm sáp liễu liễu thành âm” (vô tình cắm liễu liễu thành bóng râm) quen thuộc này cũng theo đó mà hình thành.
Vậy câu thành ngữ trên ra đời như thế nào? Người xưa quan sát thấy khả năng thích ứng với môi trường của cây liễu cực kỳ tốt, rất dễ trồng, phát triển mạnh. Lý Thời Trân nói: “Sanh liễu (hà liễu), thân nhỏ cành yếu, cắm vào đất dễ mọc. Hoa màu đỏ, lá mỏng như tơ, duyên dáng đáng yêu”. Ngoài ra còn có một loại kỷ liễu cũng là “cắm vào đất là sống. Đầu mùa xuân nở chồi non, sau đó liền nở nhị hoa vàng. Đến cuối mùa xuân, sau khi ra lá, hoa nở rộ, đung đưa trong gió”. Bởi vì cây liễu dễ trồng, cho dù cành liễu được cắm ngang cắm dọc như thế nào thì vẫn không chết, cắm ở đâu cũng sống được, mọc ở đâu cũng tươi tốt tạo thành bóng mát, vì vậy mới sinh ra câu ngạn ngữ “vô tâm sáp liễu liễu thành âm”, mượn sức sống mãnh liệt của cây liễu để dự báo chuyện tốt đẹp sẽ xảy ra một cách tự nhiên.
Cuộc sống của người dân Trung Quốc thời xưa từ lâu đã có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với cây liễu. Người xưa thích trồng liễu, bởi vì cây liễu rất dễ trồng và có nhiều lợi ích. Người ta có thể hóng mát dưới bóng râm của cây liễu, dùng rễ cây liễu để giữ đê, cành liễu có thể dùng làm hàng rào, những nhánh liễu nhỏ có thể dùng để đan lát rổ rá. Ngoài ra, liễu đồng âm với “lưu” (lưu: dừng lại, giữ lại, lưu luyến…) Người xưa thường hái một cành liễu để tặng cho đối phương mỗi khi chia xa, để bày tỏ nỗi nhớ và mong muốn được gặp lại.
Tác phẩm “Thái Vi” trong “Kinh Thi” dùng cành liễu để nói lên tâm trạng nhớ nhà của người lính canh gác biên cương: “Tích ngã vãng hĩ, dương liễu y y” (ngày trước tôi đi, liễu bay phơ phất). Hình ảnh cành liễu trong tác phẩm của Thi Tiên Lý Bạch thì lại mang ý nghĩa báo hiệu mùa xuân về đến nhân gian: “Hàn tuyết mai trung tận, xuân phong liễu thượng quy” (Hoa mai rụng tàn trong tuyết lạnh, gió xuân đã về trên cành liễu), lại nói “xuân phong tri biệt khổ, bất khiển liễu điều thanh” (gió xuân thấu biết nỗi khổ ly biệt, chẳng muốn thổi cho cành liễu thêm xanh) (trích trong “Trung cung hành lạc từ”). Trong thế giới của Thi Tiên Lý Bạch, nghênh đón mùa xuân cũng là liễu, tiễn biệt người đi cũng là liễu. Còn đối với một thi sĩ khác của nhà Đường là Hàn Hoành mà nói, bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc đời ông cũng là có được từ “vô tâm sáp liễu liễu thành âm”.
Xuân thành vô xứ bất phi hoa, Hàn Thực đông phong ngữ liễu tà. Bức tranh “Liễu thiền hồng liệu” của Vương Đình Quân thời nhà Kim, nay được lưu giữ tại Bảo tàng Cố cung Đài Bắc. Ảnh: Phạm vi công cộng.
Thi sĩ nhà Đường Hàn Hoành, tự Quân Bình, người Nam Dương, đỗ tiến sĩ vào năm Thiên Bảo thứ 13, ông là một trong Đại Lịch thập tài tử (mười tài tử giỏi nhất vào những năm Đại Lịch), ông sáng tác rất nhiều bài thơ, phong cách thơ của ông rất đa dạng và hoa mỹ, lối viết thành thạo và cô đọng, được các nhân sĩ trong triều đình khi đó yêu quý. Đường Hàn Hoành có một bài “Hàn Thực” cực kỳ nổi tiếng trong thơ Đường như sau:
Xuân thành vô xứ phi hoa,
Hàn Thực đông phong ngự liễu tà.
Nhật mộ Hán cung truyền lạp chúc,
Khinh yên tán nhập ngũ hầu gia.
Dịch nghĩa:
Mùa xuân trong kinh thành Trường An không có nơi nào là không có hoa bay,
Ngọn gió phía đông thổi nghiêng những cây liễu trong vườn ngự uyển vào Tết Hàn Thực.
Chiều tối chạng vạng, trong cung truyền gọi người mang nến ra đốt
Làn khói nhẹ nhàng tạn mạn vào trong nhà của năm hầu tước.
Bài thơ này để lại được tiếng tăm trong lịch sử thơ ca của Trung Quốc, đằng sau thi phẩm còn có một câu chuyện rất thú vị. Nhờ vào một câu hát “vô tâm sáp liễu liễu thành âm” mà Hàn Hoành đã đảo ngược được vận trình ảm đạm đầy thất vọng của mình, để lại một cảnh đẹp lung linh của hoàng hôn.
Chuyện kể rằng: Năm Kiến Trung thứ nhất của Đường Đức Tông (năm 780), vào một đêm nọ, trong thành Biện Châu, đột nhiên có một tuần quan (một chức quan nhỏ chuyên tuần tra, giám sát) xuất hiện trước cửa nhà của Hàn Hoành, gõ cửa một cách khẩn cấp. Hàn Hoành bước ra mở cửa, nhìn thấy người đến chính là một đồng liêu họ Vi rất thân thiết với ông tại chỗ làm việc trong Biện Tống Tiết độ sứ mạc phủ, Hàn Hoành cảm thấy rất ngạc nhiên, Vi tuần quan vui mừng báo tin vui, chúc mừng ông rằng: “Viên ngoại thăng chức lên Giá bộ lang trung, Tri chế cáo”.
Hàn Hoành vô cùng kinh ngạc, ông chỉ là một quan viên trong Tiết độ sứ mạc phủ, hoàng đế đối với ông mà nói như thể xa tận chân trời, làm sao có thể khâm điểm ông làm thân tín bên cạnh ngài được chứ? Hơn nữa ông cũng đã gần tuổi xế chiều, những bài thơ của Đại Lịch thập tài tử từng nổi tiếng khắp kinh thành ngày trước cũng đã chìm lắng rất lâu rồi, những hậu tiến trong mạc phủ còn không biết đến. (Khâm điểm: vua đích thân tuyển chọn; hậu tiến: từ trái ngược với tiên tiến, chỉ những người có học thức và hiểu biết nông cạn)
Ông vừa mời Vi tuần quan vào trong nhà, vừa nói một cách khẳng định rằng: “Chắc chắn không có chuyện này, nhất định là truyền nhầm tin rồi”.
Sau khi Vi tuần quan ngồi xuống ghế, mới nói rõ ràng chi tiết rằng: “Chức vụ chế cáo đang thiếu người, Trung Thư Tỉnh hai lần tiến cử ứng viên lên trên triều đình, nhưng hoàng thượng mãi không chịu khâm điểm. Trung Thư Tỉnh xin hoàng thượng đích thân hạ chỉ tuyển chọn nhân tài, lần này hoàng thượng phê duyệt là: ‘Chọn Hàn Hoành’”. (Trung Thư Tỉnh: tên cơ quan chính quyền trung ương của Trung Quốc thời xưa)
Nhìn thấy ánh mắt vừa ngạc nhiên vừa nghi ngờ của Hàn viên ngoại, Vi tuần quan nói tiếp: “Trùng hợp là có hai người đều tên là Hàn Hoành, ngoài viên ngoại ra, còn có một vị là thứ sử ở Giang Hoài. Thế là Trung Thư Tỉnh lại viết hai cái tên Hàn Hoành, trình lên cho hoàng thượng khâm điểm. Lần này hoàng thượng tự tay viết ra một bài thơ: ‘Xuân thành vô xứ phi hoa, Hàn Thực đông phong ngự liễu tà. Nhật mộ Hán cung truyền lạp chúc, Khinh yên tán nhập ngũ hầu gia’, và viết ở sau bài thơ ‘chọn Hàn Hoành này’”.
Vi tuần quan khẳng định rằng: “Đây chẳng phải là thơ của ngài hay sao?”, Hàn Hoành nói: “Đúng vậy”.
Vi tuần quan lại nói tiếp: “Vì vậy mới biết viên ngoại được khâm điểm Tri chế cáo, chuyện này tuyệt đối không sai đâu!”.
Sau khi Hàn Hoành được thăng quan, Thứ sử đại nhân và các đồng liêu đều kéo đến nhà của Hàn Hoành để chúc mừng.
Nghệ thuật làm thơ của Hàn Hoành gần với lịch sử, vừa văn vừa thơ, ý cảnh phong phú đa dạng, ý nghĩa súc tích sâu sắc, thơ từ thanh tao không thô tục, đẹp như hoa sen vừa mới nở, ngay cả hoàng đế đương triều Đường Đức Tông cũng có ấn tượng sâu sắc, cũng bị xúc động mãnh liệt. Bài thơ “Hàn Thực” mượn lịch sử để diễn đạt một cách súc tích về sự quan tâm và lo lắng của nhà thơ đối với triều chính. Câu thơ “Khinh yên tán nhập ngũ hầu gia”, mượn ngày xưa để nói ngày nay: Khinh yên (khói nhẹ) ẩn dụ quyền thế phú quý, ngũ hầu là năm hoạn quan được Đông Hán Hoàn Đế phong làm hầu cùng một lúc, nắm quyền một thời, chuyên quyền thối nát, gieo mầm họa hủy diệt hoàng triều, đối ứng với tình trạng các hoạn quan trong triều đình nhà Đường được nuông chiều sủng ái. Từ những hình ảnh phong phú: xuân thành (kinh thành vào mùa xuân), ngự liễu (cây liễu trong vườn ngự uyển) và lạp chúc (nến) trong “Hàn Thực” có thể thấy được tình cảm sâu đậm của tác giả, không thể hiện sự trách móc, nhưng lại mang ngụ ý cảnh báo và nhắc nhở, tình cảm sâu đậm dành cho quê hương đất nước đều được ẩn chứa trong thơ.
Bài thơ “Hàn Thực” của Hàn Hoành được đánh giá rất cao bởi Đường Đức Tông, nên ông được đề bạt lên Giá bộ lang trung, Tri chế cáo, sau này được tiếp tục thăng chức đến Trung thư xá nhân.
Khi Hàn Hoành viết “Hàn Thực”, ông chưa từng có suy nghĩ rằng sẽ thông qua bài thơ này để được thăng quan tiến chức, đây là một ví dụ điển hình cho câu “vô tâm sáp liễu liễu thành âm”, trong lòng hoàn toàn không có mong cầu nhưng lại mang đến kết quả ngoài mong đợi. Cố gắng là ở con người, thành công hay không là do ông Trời quyết định, chỉ cần chúng ta luôn duy trì sự chân thành và thiện niệm, làm những chuyện đúng đắn, không chút mong cầu, ông Trời chắc chắn sẽ trả lại cho chúng ta những kết quả tốt nhất.
Theo Epoch Times
Châu Yến biên dịch